Sau khi Catherine ra về và trong những ngày tiếp theo, tôi suy xét cẩn thận những chi tiết của việc đi ngược thời gian bằng thôi miên. Suy xét là bản chất của tôi. Rất hiếm khi chi tiết từ một giờ trị liệu “bình thường” thoát khỏi sự phân tích cặn kẻ của tôi huống gì buổi trị liệu này thì khó có thể gọi là “bình thường.”
Ngoài ra, tôi rất nghi ngờ về cuộc sống sau khi chết, sự đầu thai, kinh nghiệm bên ngoài cơ thể và những hiện tượng liên quan. Sau cùng, phần lý trí cẩn trọng của tôi cho rằng đây có thể là hình ảnh tưởng tượng của cô ấy. Tôi thực sự không thể chứng minh bất kỳ khẳng định hay hình dung nào của cô ấy. Nhưng tôi cũng cảm nhận, dù hết sức mơ hồ, về một suy nghĩ sâu xa và ít cảm tính hơn. Hãy giữ đầu óc cởi mở, suy nghĩ nào bảo; khoa học thật sự bắt đầu bằng việc quan sát. “Trí nhớ” của cô ấy có thể không phải kỳ ảo hay tưởng tượng. Có điều gì có còn sâu xa hơn những gì mắt thấy hay bất kỳ cảm nhận bằng giác quan nào khác. Giữ đầu óc cởi mở. Thu thập thêm dữ liệu.
Tôi có một ý nghĩ dai dẳng khác. Liệu Catherine với khuynh hướng bắt đầu bằng sợ hãi và hồi hộp có quá sợ hãi để được thôi miên tiếp tục? Tôi quyết định không gọi cho cô. Hãy để cô ấy cũng phải tiêu hóa kinh nghiệm này. Tôi nên đợi đến tuần kế.
Một tuần sau, Catherine ào vào văn phòng của tôi cho buổi thôi miên tiếp theo. Vốn đã xinh đẹp, giờ đây cô còn rạng ngời hơn bao giờ hết. Cô sung sướng thông báo rằng nỗi sợ chết đuối của đời cô đã biến mất. Nỗi sợ ngạt thở của cô gần như bị loại bỏ. Giấc ngủ của cô không còn bị ngắt quãng vì cơn ác mộng về chiếc cầu gãy. Mặc dù cô đã nhớ lại những chi tiết trong ký ức về kiếp trước của mình, cô vẫn chưa thật sự chấp nhận những chất liệu này.
Khái niệm về kiếp trước và đầu thai hoàn toàn xa lạ với thế giới quan của cô thế nhưng những ký ức đó quá sinh động, hình ảnh, âm thanh và hương vị hết sức rõ ràng, kiến thức cô có ở đó quá mạnh và tức thời đến nỗi cô cảm thấy mình phải thực sự đã từng ở đó. Cô không nghi ngờ về điều này; kinh nghiệm cực kỳ mạnh mẽ. Điều cô băn khoăn là làm thế nào để điều này có thể tương hợp với nền giáo dục và đức tin của mình.
Trong suốt tuần đó tôi đã xem lại giáo trình môn tôn giáo so sánh mà mình đã học trong năm thứ nhất ở đại học Columbia. Tân Ước và Cựu Ước thực sự có đề cập đến hiện tượng đầu thai. Năm 325 hoàng đế La Mã là Constantine Đại đế cùng với mẹ của mình là Helena đã xóa bỏ phần đề cập đến hiện tượng đầu thai trong Tân Ước. Hội đồng Constantinople Đệ nhị họp vào năm 553 khẳng định hành động này và tuyên bố quan điểm đầu thai là tà giáo. Rõ ràng, họ nghĩ rằng quan niệm này sẽ làm suy yếu sức mạnh đang lên của giáo hội khi mang lại cho con người quá nhiều lần tìm kiếm sự cứu rỗi. Tuy vậy những thông tin gốc vẫn còn ở đó; những đức cha đầu tiên của giáo hội đã chấp nhận quan niệm về đầu thai. Gnostics – Clement xứ Alexandria, Origen, thánh Jerome và nhiều vị khác – tin rằng họ đã từng sống trước đó và sẽ tiếp tục sống kiếp khác.
Tuy nhiên, tôi không bao giờ tin vào đầu thai. Thực sự, tôi chưa bao giờ dành nhiều thời gian để nghĩ về điều này. Mặc dù giáo dục tôn giáo ban đầu của tôi dạy một vài thứ về sự tồn tại mơ hồ của “linh hồn” sau khi chết nhưng tôi không bị thuyết phục bởi quan niệm này.
Tôi lớn nhất trong bốn đứa con, tất cả đều cách nhau ba tuổi. Chúng tôi thuộc về một nhà thờ Do Thái giáo bảo thủ ở Red Bank, một thành phố nhỏ gần bờ biển New Jersey. Tôi là người hòa giải và là chính khách của gia đình. Cha tôi chú trọng đến tôn giáo hơn bất kỳ ai khác trong nhà. Ông cực kỳ nghiêm túc về chuyện này và giữ như vậy suốt đời. Thành quả học tập của những đứa con là niềm vui lớn nhất đời ông. Ông dễ cáu kỉnh với những bất hòa trong nhà và sẽ rút lui để mặc cho tôi giải quyết. Điều này hóa ra lại là bước chuẩn bị tuyệt vời cho nghề trị liệu tâm thần, nhưng nhìn lại, tuổi thơ của tôi nặng nề và nhiều trách nhiệm hơn tôi mong muốn. Tôi trở thành một thanh niên cực kỳ nghiêm túc vốn quen với việc gánh lấy quá nhiều trách nhiệm.
Mẹ của tôi luôn thể hiện tình yêu của mình. Không có điều gì có thể ngăn cản bà ấy. Là người đơn giản hơn cha tôi, bà ấy thường dùng cảm giác tội lỗi, thánh tử đạo, giới hạn của sự xấu hổ, tên tuổi gia đình như những công cụ điều khiển con cái không chút dao động. Tuy nhiên, bà hiếm khi buồn bã và chúng tôi luôn có thể dựa vào tình yêu và sự giúp đỡ của mẹ.
Cha tôi có một công việc tốt là nhà nhiếp ảnh công nghiệp và mặc dù chúng tôi luôn có nhiều thực phẩm nhưng tiền bạc lại rất hạn hẹp. Peter, em út của tôi được sinh ra khi tôi lên chín. Sáu người chúng tôi sống trong một căn hộ nhỏ có vườn với hai phòng ngủ.
Cuộc sống trong căn hộ nhỏ này ồn ào, náo nhiệt và tôi đã trốn vào những cuốn sách của mình. Tôi đọc không ngừng khi không chơi bóng rổ hay bóng ném – niềm đam mê thuở nhỏ của tôi. Tôi biết rằng học hành là cách thoát khỏi thành phố nhỏ này, vì thế tôi luôn đứng hạng nhất hay hạng nhì trong lớp.
Khi nhận được học bổng toàn phần của đại học Columbia, tôi là một thanh niên nghiêm túc và chăm chỉ. Thành công học thuật tiếp tục đến một cách dễ dàng. Tôi học chuyên về hóa và tốt nghiệp với hạng danh dự. Tôi quyết định trở thành bác sỹ tâm lý vì lĩnh vực này kết hợp được sự quan tâm của tôi với khoa học và niềm say mê làm việc với trí óc của con người.
Ngoài ra, nghề nghiệp trong lĩnh vực y khoa cũng cho phép tôi thể hiện mối quan tâm và sự đồng cảm với người khác. Trong thời gian đó tôi gặp Carole trong một kỳ nghỉ hè ở khách sạn Catskill Mountain, nơi tôi làm công việc rửa chén và cô là một người khách. Cả hai đều cảm thấy bị hấp dẫn nhau, có cảm giác hết sức quen thuộc và thoải mái. Chúng tôi đã hòa hợp, hẹn hò, yêu nhau và đính hôn vào năm thứ ba của tôi ở Columbia. Cô ấy vừa tươi tắn vừa xinh đẹp. Mọi thứ dường như được sắp đặt đâu vào đấy. Hiếm có chàng trai trẻ nào lo lắng về sự sống và cái chết cũng như cuộc sống sau khi chết và tôi cũng không phải là ngoại lệ. Tôi đã trở thành một nhà khoa học và học cách suy nghĩ theo lối luận lý, không hề cảm tính và “thực chứng.”
Trường Y và cuộc sống ở đại học Yale càng mài sắc thêm phương pháp khoa học này. Luận án nghiên cứu của tôi là về hóa học não và vai trò của những chất dẫn truyền tín hiệu thần kinh là những tác nhân truyền thông điệp theo cơ chế hóa học trong các mô não.
Tôi gia nhập ngành mới là tâm thần sinh học, những bác sĩ này phối hợp lý thuyết và kỹ thuật tâm thần truyền thống với ngành khoa học mới về hóa học não. Tôi viết nhiều báo cáo khoa học, thuyết trình tại những hội nghị vùng, quốc gia và trở thành chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực của tôi. Tôi có phần nào ám ảnh, tập trung cao độ và cứng rắn nhưng đây là những đặc điểm cần thiết của một bác sỹ. Tôi cảm thấy hoàn toàn sẵn sàng để chữa cho bất kỳ ai bước vào văn phòng của mình để trị liệu.
Thế rồi Catherine trở thành Aronda, một cô gái trẻ sống vào năm 1963 trước công nguyên. Hay đó có phải là con đường khác để hiểu vấn đề? Và rồi cô ấy lại có mặt, hạnh phúc hơn mà tôi chưa từng thấy.
Tôi đã từng lo rằng Catherine có thể sợ phải tiếp tục. Tuy nhiên, cô đã nóng lòng chuẩn bị cho việc thôi miên và nhanh chóng đi vào trạng thái xuất thần.
“Tôi đang ném những vòng hoa xuống nước. Đây là một buổi lễ. Tóc tôi màu vàng và tết lại. Tôi mặc váy nâu dát vàng và giày xăng đan. Một vài người đã qua đời, một vài người trong hoàng cung… người mẹ. tôi là một nô tì trong hoàng cung và tôi phục vụ thức ăn. Chúng tôi ngâm những cơ thể này 30 ngày trong nước muối. Chúng được làm khô và nội tạng được lấy ra ngoài. Tôi có thể ngửi nó, mùi của các cơ thể.”
Cô ấy đã tự động quay lại kiếp sống của Aronda nhưng ở một giai đoạn khác, lúc nhiệm vụ của cô là chuẩn bị cho các cơ thể sau khi chết.
(Còn tiếp)
(Trích Sách mới Ám ảnh từ kiếp trước – Thaihabooks)
Xem phần 1: Ám ảnh từ kiếp trước: Bí mật của sự sống và cái chết
Phần 2: Ám ảnh từ kiếp trước – Phần 2: Ngược về quá khứ
Phần 3: Ám ảnh từ kiếp trước – phần 3: Kinh ngạc những ký ức xưa cũ
Phụ Nữ Hiện Đại hợp tác truyền thông cùng Thaihabooks